Thực đơn
Vọng_cổ Các bản vọng cổ theo nhịpCùng với việc tăng số nhịp trong mỗi câu, bản vọng cổ ngày càng đa dạng thêm nhờ sự sáng tạo của các soạn giả, các nghệ sĩ làm bản vọng cổ ngày nay rất phong phú.
Bản Vọng cổ nhịp đôi tức là bản Dạ cổ hoài lang nguyên thủy.
Sáu câu đầu trong bản này như sau, vần gieo mỗi câu một lần (trong đó có câu vần lưng tức yên vận):
Sáu câu này có sáu chữ dứt câu như sau:
Những chữ nhạc này được dùng trong tuồng "Tham phú phụ bần" như sau:
...
Tới hết 20 câu thì hết bản.
Nhịp tư bắt đầu có từ năm 1927. Từ bản này, vọng cổ có bước thay đổi quan trọng: Chữ nhạc trong bài không theo hơi Bắc (tức Bắc chánh) nữa mà đổi sang hơi Bắc Oán. Dưới đây là sáu câu đầu bản "Khúc oan vô lượng" của soạn giả Huỳnh Thủ Trung tức Tư Chơi.
...
Bản nhịp 8, từ năm 1936, bắt đầu ngân nga hơn bản nhịp tư. Người góp công làm bản nhịp tám được công chúng ưa chuộng phải kể đến nghệ sĩ Lưu Hoài Nghĩa tức Năm Nghĩa. Nhiều bản tuồng nhịp 8 tới nay vẫn còn nổi tiếng, như bản "Tô Ánh Nguyệt" của soạn giả Trần Hữu Trang:
...
Tới bản 16, từ năm 1946, mỗi câu bắt đầu dài, như 6 câu sau đây, trong "Tôn Tẫn giả điên", nổi tiếng với giọng ca Út Trà Ôn:
Thời kỳ vọng cổ nhịp 16 cũng là lúc câu vọng cổ có trộn vô những câu nói thơ (tức ngâm thơ, theo điệu Tao Đàn hoặc Vân Tiên) và những câu hò. Đây là sáng kiến của NSND Út Trà Ôn ảnh hưởng cho tới nay. Trong bản "Tôn Tẫn giả điên", Út Trà Ôn nói thơ trong câu 11-12 và hò trong câu 13 như sau:
11. Bây giờ buồn quá, để nói thơ cho bà con cô bác nghe chơi: Buồn cười vua Trụ đa đoan, mê nàng Đắc Kỷ rồi giết oan hết cả trào. Nói qua tới lớp vua U mà yêu ấp ả má đào12. Ẵm ôm nàng Bao Tỉ giặc vào cũng không hay. Còn vua Kiết có tánh rồi hay say, nghe lời của Muội Hỷ mà lại giết ngay tôi Long Phùng.13. Hò hơ... chết tôi, tôi chịu xin đừng bận bịu bớ điệu chung tình. Hò hơ... con nhạn bay cao rồi khó bắn, hò hơ... con cá ở ao quỳnh cũng khó câu...Từ khi có bản vọng cổ 16 nhịp, câu nhạc đã bắt đầu đa dạng phong phú.
Bản vọng cổ 32 nhịp ra đời năm 1941, do nhạc sĩ Trần Tấn Hưng (tức Năm Nhỏ) chế tác, đến năm 1955, thì được đưa ra phổ biến rộng rãi, là bản vọng cổ được coi là tiêu chuẩn hiện nay, mặc dù cũng đã xuất hiện bản 64 nhịp và 128 nhịp. Trần Tấn Hưng tâm đắc nhất là bản Vọng cổ và tiền thân của nó là bản Dạ cổ hoài lang, sở trường của ông lại là chiếc đàn ghi ta phím lõm (lục huyền cầm) nên rất thích hợp với giọng mùi mẫn của loại nhạc điệu này. Năm 1936, Trần Tấn Hưng thọ giáo thầy Nhạc Khị, nhưng Nhạc Khị lúc này đã già yếu nên việc dạy đờn cho các môn sinh mới đều ủy thác cho các đệ tử là Ba Chột, Sáu Lầu, vì vậy Trần Tấn Hưng tuy làm lễ bái sư với Nhạc Khị nhưng kể như chính thức mở đầu cuộc đời nghệ thuật từ hai vị sư huynh này. Theo nhận xét của ông bản Vọng cổ 20 câu nhịp 16, về số câu thì quá dài còn lòng câu của mỗi câu lại ngắn, chỉ phù hợp với đờn ca tài tử không phù hợp với sân khấu cải lương; ông muốn rút số câu lại còn 6 câu và mở bung mỗi câu thành 32 nhịp cho diễn viên dễ trình diễn hơn. Cuối cùng Trần Tấn Hưng đã thành công; ông đã độc tấu bản Vọng cổ nhịp 32 với chiếc đờn ghi ta trong ngày giỗ tổ ngày 12 tháng 8 năm Tân Tỵ (1941). Hôm đó, mọi người đều rất hân hoan, ai nấy đều mỗi câu chúc mừng thành quả của người "em nhỏ"; nhạc sĩ Cao Văn Lầu mừng rỡ hơn ai hết vì ông đã thấy bản Vọng cổ - hóa thân của Dạ cổ hoài lang thêm một lần chuyển mình và phát triển, ông phát biểu: Bản Dạ cổ hoài lang nhịp đôi do tôi đặt ra, nhưng biến đổi thành bản Vọng cổ có nhiều nhịp như hiện nay là do công của Trịnh Thiên Tư, Năm Nghĩa, Mộng Vân và Năm Nhỏ. Bản Vọng cổ nhịp 32 của nhạc sĩ Trần Tấn Hưng đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình phát triển của Vọng cổ nói riêng và Cải lương Nam Bộ nói chung; đã góp phần tạo điều kiện cho người sáng tác cổ nhạc, biên soạn kịch bản và diễn viên sân khấu có điều kiện để thực hiện được hết khả năng và nghệ thuật của mình bởi nó dung nạp được tất cả các thể hơi từ Bắc, Hạ, Nam, Oán... do đó, nó được mệnh danh là Hoàng đế của thể loại âm nhạc tài tử và sân khấu ca kịch cải lương.
Từ bản 32 nhịp, mỗi câu bắt đầu có vần gieo ngay trong câu, vì 32 nhịp là quãng quá xa để chỉ có một vần. Câu dưới đây trong bản "Nắng chiều quê ngoại" của soạn giả NSND Viễn Châu là một thí dụ:
Bản vọng cổ 32 nhịp đầy đủ có 6 câu. Tức là ngắn hơn các bản nhịp 8 thường có 20 câu. Tuy nhiên, ngay cả sáu câu cũng có khi không sử dụng hết. Bản vọng cổ khi ghi ra giấy, do đó, thường có đánh số câu để người nghệ sĩ biết bản nhạc sử dụng câu nào. Hai câu 1 và 4 thường chỉ có 16 nhịp cuối câu.
Khi bản vọng cổ đã tới 32 nhịp, nhiều soạn giả chêm vô những câu nói giặm. Để nghệ sĩ vô ca vọng cổ cho êm, soạn giả cũng thường gối đầu bằng một khúc nói lối văn xuôi, những câu nói lối văn vần (lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt, hoặc cả thơ mới), hoặc một bản ngắn cổ điển như Hành vân, Sương chiều, Lý Cái Mơn hoặc tiêu biểu là Lý con sáo.
Thực đơn
Vọng_cổ Các bản vọng cổ theo nhịpLiên quan
Vọng cổ Vọng cổ Geisha Vọng cổ hoài lang Vọng cách Vòng cổ ngọc trai (hành vi tình dục) Võng Cổ Vọng Các Vòng cổ xoắn Leefrith Vọng ChâuTài liệu tham khảo
WikiPedia: Vọng_cổ http://www.thuvienbinhduong.org.vn/?ArticleId=668f... http://vongco.vn/tai-lieu-sang-tac/Tim-hieu-vong-c...